Tiểu thuyết Mạc Đăng Dung ( Phần 6)

Tiểu thuyết Mạc Đăng Dung ( Phần 6)

Tư dinh của Nguyễn Bảo Khuê ở phía Nam thành, gần Văn Miếu. Một chiều, Tả Đô đốc Trịnh Duy Liệu đến chơi, mời tới nhà mình mừng vừa sinh con trai. Bảo Khuê nhận lời.

 

Ba bà vợ trước của Duy Liệu bà nào cũng sinh con gái, may sao đến bà thứ tư do chính Bảo Khuê tác thành lại sinh quý tử, không mừng cho bạn sao được. Bảo Khuê ra đến cửa, người vợ hỏi với độ bao giờ thì về? Duy Liệu trả lời thay:

- Chị cứ đi nghỉ trước, khoảng giờ hợi anh ấy mới về được.

Khách toàn những vị đại thần. Có mừng Duy Liệu sinh con trai thật nhưng chuyện đó diễn ra chóng vánh. Giữa chừng Duy Liệu mời khách ra vườn hoa sau nhà. Sau khi bảo gia nhân lui, Duy Liệu rước một người từ nãy đến giờ ẩn trong bóng tối ra chiếc bàn đá dưới gốc liễu. Đó là Giản Tu công Lê Oánh. Lê Oánh rút gươm đặt trước mặt, nói:

 

- Hôm nay tôi mời các ông đến đây, toàn những người trọng nghĩa để bàn việc hệ trọng của đất nước. Nhà Lê ta từ đấng Thái Tổ tới giờ chưa khi ảm đạm như lúc này. Vua Đoan Khánh chẳng khác nào bạo chúa, quần thần bị giết hại vô cớ, dân chúng lầm than khổ sở, máu chảy làm cả nước hồ Hoàn Kiếm cũng nhuộm đỏ. Đã thế lại hoang dâm vô độ, khuyến khích ngoại thích lộng quyền, Đông thì Hoa Lăng, Tây thì Phù Chẩn, cái điềm gà mái ở Tây Hồ biết gáy bây giờ mới nghiệm ra. Tôi nói có gì không đúng thì thanh gươm đây, các ông cứ cầm lấy chặt ngay đầu tôi đem nộp cho Đoan Khánh, còn như thấy đúng thì phải cùng nhau không để bạo chúa hoành hành mãi được.

 

Mọi người xôn xao. Bây giờ Nguyễn Bảo Khuê mới để ý thấy khách khứa quây quần thành ba nhóm:

Nhóm Nguyễn Tống Sơn, quê ở trang Gia Miêu ngoại, huyện Tống Sơn, trấn Thanh Hoa; mẹ vua Hiến Tông, tức là bà Huy Gia Trường Lạc Hoàng thái hậu Nguyễn Thị Hằng là người họ này. Bây giờ ngồi đây có cha con Quốc cữu Nguyễn Văn Lang, Nguyễn Văn Lự và người cháu là Nguyễn Hoằng Dụ.

Nhóm Trịnh Thuỷ Chú, quê ở xã Thuỷ Chú, huyện Lôi Dương, trấn Thanh Hoa. Bà thứ phi Trịnh Thị Tuyên, mẹ Giản Tu công chính là người họ này. Lôi Dương là đất rồng cuộn hổ ngồi, ngày trước bà Tuyên tổ Trịnh Hoàng thái hậu, mẹ vua Lê Thái Tổ cũng là người làng này. Về sau, Phạm Hoàng thái hậu, mẹ vua Thái Tông; Trịnh Thần phi, mẹ Hoàng tử trưởng Tư Tề; Nguyễn Kính phi, vợ vua Thánh Tông; bây giờ đến Trịnh Minh phi mẹ Giản Tu Công; tất cả đều là người Lôi Dương. Chẳng trách những người bà con với Trịnh Thị Tuyên ngồi đây khá đông: Trịnh Duy Sản, Trịnh Duy Đại, Trịnh Duy Liệu, Trịnh Hựu, Trịnh Tuy.

 

Nhóm thứ ba có Lê Quảng Độ, Lương Đắc Bằng và mấy người nữa. Nguyễn Bảo Khuê thấy mình không phải người Tống Sơn cũng không phải người Lôi Dương nên đến ngồi với đám Lê Quảng Độ.

Nguyễn Văn Lang giọng nghẹn ngào:

 

- Trường Lạc Thái hoàng thái hậu vì ngăn cản bạo chúa lên ngôi mà bị y sai người ám hại. Thử nghĩ xem, đến như bà nội mình hôn quân còn giết chẳng ghê tay, chẳng sợ người đời nguyền rủa, thì y còn tha cho ai nữa. Vậy y phỏng có còn là giống người? Tôi nói điều này thiên hạ có khi lại nghĩ tôi vì bênh chị thương chị mình mà nói vậy. Thế thử hỏi Đặng Hoạch Thượng thư tội gì? Chỉ vì không uống được rượu mà bị giết ư? Bảng nhãn võ Đào Cứ tội gì mà chưa kịp vinh quy đã bị đem chém? Mấy cung nữ tội gì mà y vừa vui thú với người ta xong đã giết người ta ngay? Giản Tu công nói rất phải. Tôi xin hiến toàn bộ gia tài và huy động dân chúng Tống Sơn ứng nghĩa để trừ bạo chúa.

 

Ai cũng biết trong tay họ Nguyễn có hàng nghìn quân bản bộ, mấy chục thuyền chiến, mấy trăm voi ngựa, nếu cần, trong vài ngày có thể chiêu mộ thêm hàng vạn tráng sĩ, lại vốn quen với vua nước Ai Lao, cần nữa có thể sang đấy mượn thêm voi chiến.

 

Trịnh Duy Sản đấm tay xuống chiếc bàn đá, mạnh đến nỗi làm thanh gương trên đó cũng nẩy bật lên:

- Anh em chúng tôi cũng chỉ cần hô một tiếng là người Lôi Dương đi theo nườm nượp.

Cánh họ Trịnh còn mạnh hơn cả họ Nguyễn, từ khi Thái uý Trịnh Khả theo vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa đến nay con cháu mấy chục người nối đời thụ ấn công hầu làm tướng võ, như những trụ cột không thể thiếu của triều đình.

 

- Chúng ta đã đồng lòng nhưng cần phải có minh chủ. - Duy Liệu nói.

Trịnh Duy Đại nói ngay:

- Còn ai hơn Giản Tu công nữa? - Duy Đại bảo.

Lê Oánh đứng dậy bái tạ và nói:

 

- Tôi tài hèn sức mọn không dám đảm đương việc lớn, nay huynh trưởng tôi là Cẩm Giang vương vốn người hiền đức, nghĩa hiệp, nói một tiếng hào kiệt bốn phương đều nghe, ta mời ông ấy làm minh chủ.

Mỗi người một ý:

 

- Nhưng Cẩm Giang vương không có đây, biết ý ông ấy thế nào?

- Hay mời An vương? Ngày trước ngôi vua đáng lẽ là của An vương vì ông ấy là trưởng, chứ không phải của Thái Trinh, sau đó đáng lẽ càng không phải của Đoan Khánh.

- An vương thoái thác ngôi báu, an phận từ lâu không nên mời.

 

Cuối cùng mọi người cùng tôn Giản Tu công làm minh chủ. Bấy giờ anh em họ Trịnh mới đưa ra tờ tuyên thệ cùng đọc cho mọi người nghe, sau đó tất cả cùng ký tên và chích máu vào bát rượu lớn, chia nhau uống ăn thề, sau đó bàn ngày khởi sự.

 

Nguyễn Bảo Khuê nhắc lại hồi đi sứ, thấy con khỉ nọ kêu năm tiếng rồi lao đầu xuông đá chết, ứng với Uy Mục tuổi thân, suy ra hôn quân chỉ ở ngôi được năm năm, nay đã năm thứ tư, tháng Mười. Hôn quân lên ngôi tháng Chạp, ắt tháng Chạp sang năm là hết số, từ nay đến đấy còn hơn một năm, người về Thanh Hoa chiêu tập lực lượng, người ở lại kinh đô lo nội ứng, thời gian là vừa. Nhưng cả Lê Oánh lẫn hai bên họ Nguyễn họ Trịnh đều cho rằng chờ một năm thì lâu quá. Ngay tháng Chạp năm nay đúng vào ngày mồng 8, sau giỗ đầu Túc Tông ba hôm thì khởi sự.

 

Lúc mọi người ra về đã giữa giờ hợi.

 

Nguyễn Bảo Khuê vừa đi cũng là lúc người vợ đưa tình nhân của ả vào buồng. Đời lắm chuyện lạ lùng nhiều khi không thể hiểu nổi. Tình nhân của vợ Bảo Khuê là giám mã trong nhà, đấy chỉ là gọi cho đẹp, công việc của y là cho ngựa ăn, tắm rửa cho chúng, có lúc còn phải dọn chuồng ngựa. Hồi Bảo Khuê đi sứ, người vợ chịu cảnh phòng không mãi không nổi mới xa gần gợi ý gã giám mã, được một lần rồi từ đó quen thói, cứ có cơ hội là hai người lại gần nhau. Đêm nay chính là cơ hội. Vì sợ Bảo Khuê có thể về đột ngột, vả lại muốn được thật nhiều thời gian âu yếm nhau nên thậm chí gã giám mã còn chưa kịp tắm rửa, thay quần áo, thành thử người toàn mùi hôi của ngựa; hú hí thoả thuê rồi mới giật mình vì thấy khắp giường chiếu, chăn màn cho đến cả người ả đàn bà cũng toàn mùi ngựa! ả nọ buộc phải xua gã giám mã đi để cho kẻ hầu thay chăn màn còn mình thì tắm rửa. Đang lúc ấy, Bảo Khuê về.

Thấy chồng vẻ mặt đăm chiêu như ẩn giấu điều gì, ả đàn bà đã hoảng nhưng rồi không thấy chồng tỏ ra ngờ vực gì, trên tay lại có vết dao cứa, ả mới hỏi vì sao. Bảo Khuê quanh co giải thích khiến người vợ sinh nghi.

 

Mọi khi Bảo Khuê thường đặt mình là ngủ, lần này cứ trằn trọc khiến ả đàn bà lại lo, chỉ sợ chồng phát hiện ra mùi ngựa. Nhưng rồi ả nhận ra Bảo Khuê dường như mải nghĩ điều gì khác vì mọi khi nếu khó ngủ Bảo Khuê liền gần vợ, sau đó ngủ được ngay, có khi đến sáng cũng không buồn dậy. Lần này Bảo Khuê chẳng thiết chuyện ấy. Người vợ vừa no xôi chán chè với gã giám mã nên cũng chẳng cần, nhưng tính tò mò nên ả choàng tay qua ngực chồng, ỏn thót gợi chuyện, hỏi cả chuyện tại sao cổ tay lại có vết cứa. Bảo Khuê nói:

 

- Chuyện hệ trọng, nàng là đàn bà hỏi làm gì?

Hôm sau vợ Bảo Khuê liền kể với tình nhân. Gã giám mã nghĩ: Được mời đi ăn mừng, về lại không ngủ được, chẳng thiết chuyện nọ kia, cổ tay có vết dao cứa, hỏi lại bảo chuyện hệ trọng... Gã vốn quen Lê Kỳ liền thắc mắc với gã Đô lực sĩ này. Lê Kỳ tâu với Uy Mục. Bảo Khuê bị gọi ngay sau đấy. Duy Liệu cũng bị gọi. Cả hai chỉ nói chuyện mừng sinh con trai. Nhưng trong đám gia nhân có người kể ra tối ấy có những người nọ người kia, có cả Lê Oánh. Uy Mục sinh nghi, lập tức sai bắt tất cả những người có mặt tối hôm ấy. Nhưng chỉ bắt được một số, những người này ai cũng chỉ một mực nói đến nhà chia vui với Duy Liệu. Nhưng những vết cứa trên cổ tay ai cũng giống ai và mỗi người giải thích một cách khiến Uy Mục không thể tha cho một ai. Tất cả đều bị tống ngục. Cha con Nguyễn Văn Lang vì vào Thanh Hoa lo chuyện khởi nghĩa mà thoát nạn. Bảo Khuê nghĩ tất cả tại mình liền cắn lưỡi chết, cái chết lại khiến Uy Mục càng nghi.

 

Gã giám mã và người vợ Bảo Khuê dắt nhau tới chỗ Uy Mục, xin được lấy nhau. Vợ Bảo Khuê nói:

- Tâu bệ hạ, chồng cũ của tiện dân chết rồi, tiện dân xin được thành gia thất với chồng mới nhưng vì nhà anh ấy nghèo nên xin được mang theo một nửa gia sản, còn nửa thì để lại cho con cái Bảo Khuê ạ.

Uy Mục cười, hỏi:

 

- Hai ngươi có biết chuyện một người cũng tên là Khuê thời Tam quốc bên Bắc quốc không?

Gã giám mã thưa:

- Chúng thần học hành ít nên không biết ạ.

 

Uy Mục bảo một quan đại thần hãy nói cho chúng biết. Ông này kể:

- Người ấy là quan Thị lang Hoàng Khuê. Ông ta bàn với Mã Đằng mưu hại Tào Tháo. Về nhà, người vợ lẽ dò hỏi, vì đang say nên Hoàng Khuê nói ra hết. Ai ngờ người vợ này vốn có tư tình với em trai người vợ cả của Hoàng Khuê nên đem chuyện nói với hắn ta; tên này bèn báo cho Tào Tháo nên cả Hoàng Khuê lẫn Mã Đằng đều bị giết. Hai đứa nọ sau đó xin với Tào Tháo không muốn lấy thưởng gì cả, chỉ xin được lấy nhau. Tào Tháo cười nói: “Mày vì một con đàn bà mà làm hại mất cả nhà chồng chị, để quân bất nghĩa như mày sống làm gì!”. Vậy nên không những cả nhà Hoàng Khuê mà hai đứa ấy cũng bị chém đầu giữa chợ.

 

Gã giám mã và vợ Bảo Khuê nghe mà hoảng hồn, mồ hôi toát ra như tắm. Uy Mục nói:

- Xét ra hai ngươi còn bất nghĩa hơn cả đứa ấy vì còn muốn chiếm đoạt gia sản của người ta. Để cho hai ngươi sống thì thành gương xấu cho thiên hạ nhưng bởi hai ngươi có công với ta, giết các ngươi rồi ta sẽ cấp tiền cho cha mẹ các ngươi an dưỡng tuổi già để các ngươi được tròn đạo hiếu!

Đôi gian phu dâm phụ van lậy khóc lóc thảm thiết. Uy Mục mặc. Võ sĩ xềnh xệch lôi chúng đi chém, đầu bêu giữa chợ, cáo thị dán bên cạnh để làm gương cho người đời. Đọc, người thương, người nguyền rủa chúng.

 

Trong ngục, Giản Tu công Lê Oánh càng nghĩ càng giận cha ông đặt ra luật lệ chỉ nhằm bảo vệ người trên ngai vàng còn các thân vương thì bị tước hết quyền hành. Các hoàng tử nếu ai không kế tục ngôi báu đều được giữ tước vương đã phong, con trưởng được nối tước ấy của cha, các con thứ thì tước công. Họ được ăn lộc, được ban cho ruộng đất để con cháu về sau thế nghiệp nhưng tất cả phải tới sống ở kinh đô, không được cai trị phủ lộ nào để có thể gần gũi dân chúng, cốt đề phòng việc dụ dỗ dân chúng nổi loạn; thậm chí trong nhà chỉ có một số ít kẻ hầu người hạ chứ không được phép có quân hầu, đi đâu không có giáp binh hộ vệ. Chính vì vậy Uy Mục bắt giam một loạt thân vương mà con cháu họ chỉ biết gạt nước mắt chứ không làm gì nổi, còn như muốn chống lại thì phải dựa vào thế lực của các đại thần.

 

Lê Oánh vẫn một mực cắn răng và cầu trời khấn phật mong sao đồng đảng bền gan. Uy Mục thì nghĩ giết bọn họ dễ nhưng muốn họ khai ra đồng đảng còn chưa bị bắt để trừ tận gốc mới khó nên lần lữa. Quan Bộ Hình tâu:

 

- Để bắt ai phải mở miệng tra hỏi không được thì chỉ còn cách dùng nhục hình, dùng nhục hình cũng không được nữa thì còn mỗi nước là đem giết. Về nhục hình, đánh bằng roi vọt là tội nhẹ, còn dùng dùi sắt nung đỏ là tội nặng. Xử chết là tội nặng nữa, lại thêm tru di tam tộc là nặng nhất. Những thứ ấy định ra để phân định tội nặng nhẹ chứ đánh bằng roi vọt có khi còn gây đau đớn hơn cả giết chết. Bên Bắc quốc có thời thấy xử trảm nặng quá nên thay bằng đánh 50 trượng, nghĩ là nhẹ không ngờ khi thi hành, có kẻ chưa chịu đến 50 trượng đã chết, thành thử nhẹ mà hoá nặng vì người bị hình phạt phải chịu đau đớn kéo dài rồi mới chết! Xử chết nhẹ thì cho tự xử, nặng thì đem hành xử. Cho uống rượu độc hay thắt cổ tại gia nhẹ hơn trong tù ngục, còn như xử ngoài pháp trường bằng treo cổ hoặc chém đầu là nặng hơn cả, đem bêu đầu cửa chợ là nặng nữa. Lăng trì cũng là xử chết nhưng nặng hơn cả, ta gọi là tùng xẻo vì cứ một tiếng trống lại xẻo một miếng. Nhẹ thì xẻo ít lần ít miếng, nặng thì xẻo nhiều lần nhiều miếng. Bên Bắc quốc lệ đặt ra xẻo 3357 miếng là tội nặng, vì xẻo nhiều nên phải có người ghi chép cụ thể số lần số miếng không có thì lẫn. Nhưng không xẻo một mạch cho đủ thì thôi, ngày đầu chỉ xẻo 357 miếng, mỗi miếng to bằng móng tay cái, rồi tha cho phạm nhân, hôm sau xẻo tiếp. Ngoài ra có thể cho voi dày, ngựa xé.

Uy Mục gật gù:

 

- Nghe chuyện hình phạt kể ra cũng thú vị. Nhưng khanh chưa nói cho biết nên tra khảo bọn Oánh thế nào đâu đấy!

- Tâu bệ hạ, Giản Tu và đồng đảng đều là những kẻ dám làm dám chịu nên bắt chúng khai không dễ, theo thần, cứ phải dùng đến dùi sắt nung đỏ, chứ roi vọt không ăn thua. Sau đó dựa vào lời khai mà tuỳ mức độ xử trí, nếu là mưu phản thì không khỏi tội chết!

 

Uy Mục nghe theo, Trịnh Duy Liệu bị xử đầu tiên. Duy Liệu vẫn khăng khăng nói mời mọi người đến mừng mình sinh con trai.

- Ngươi là thứ hạng gì mà đến như Giản Tu công cũng tới mừng cho ngươi?

- Mẹ Giản Tu công là cô của thần!

Cứ sau mỗi câu trả lời Duy Liệu lại bị dùi sắt nung đỏ dí vào người. Sau lần thứ năm thì Duy Liệu ngất đi, khắp phòng khét lẹt mùi da thịt cháy.

 

Thấy vậy, Khắc Hài thưa với nhà vua:

- Thần nghĩ chắc chắn bọn ấy mưu phản. Bước đầu chỉ cần giết Lê Oánh là đủ, không cần bằng cớ gì hết. Bọn còn lại cũng như rắn mất đầu, cần thì xử trí sau.

- ... Khanh nói đúng. Truyền gọi Bộ Hình vào đây. – Uy Mục nói.

 

Nguyễn Khắc Hài chưa ra đến cửa thì gặp Thừa lệnh Bộ Hình và giám ngục từ ngoài hớt hải vào, sụp lậy, thở không ra hơi, thưa: Đêm qua, Lê Oánh và đồng đảng đã được mấy kẻ không rõ tung tích thông đồng với gác ngục cứu thoát. Giám ngục và Túc vệ đã đến nhà Lê Oánh và bọn kia, người nhà bảo không thấy chúng qua nhà, chắc trong lúc vội vàng chỉ mong chạy thoát thân nên không còn kịp nghĩ đến người nhà có thể bị liên luỵ. Uy Mục quát tháo ầm ỹ, thề phen này bắt được bọn Oánh, cho tùng xẻo mỗi đứa 5000 miếng!

 

Suốt mấy ngày liền lính Túc vệ được lệnh lùng sục khắp kinh thành và toả đi các vùng lân cận, yết thị truy nã dán khắp nơi. Không bắt được Lê Oánh và đồng đảng, Uy Mục lệnh bắt hết người nhà của họ, kẻ hầu người hạ, khách vô tình đến chơi, thầy lang đến thăm bệnh, kẻ chợ búa đến bán rau cỏ tất cả đều bị bắt, đến mấy trăm người, tiếng kêu khóc rinh trời. Mẹ Lê Oánh cũng bị bắt.

 

Trong khi đó, Lê Oánh chạy ngày chạy đêm cùng với những người trung thành thoát được vào Thanh Hoa, rồi về Thuỷ Chú, huyện Lôi Dương là quê bà Trịnh Thị Tuyên. Anh em Trịnh Duy Đại, Trịnh Duy Sản cũng về đây. Họ cho người đi Tống Sơn, huyện Hà Trung ngay hôm ấy để liên hệ với Nguyễn Văn Lang.

 

Viết bình luận