Chùa Thiểm Khê

Chùa Thiểm Khê

Liên Khê, Thủy Nguyên, Hải Phòng

Thiểm Khê là một làng nằm ven sông Giá (tên cổ gọi là Đô Lý giang) huyện Thủy Nguyên, nơi đã từng xảy ra trận Trúc Động lẫy lừng, chặn đánh đoàn thuỷ quân của giặc Mông - Nguyên. Nhân dân Thiểm Khê cùng quân, dân thời Trần hoàn thành nhiệm vụ chặn đường sông Giá để bảo đảm bí mật cho trận địa mai phục và buộc toàn bộ binh thuyền của địch phải hành quân theo sông Đá Bạc vào sông Bạch Đằng, nghĩa là phải dấn thân vào trận địa do Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn chọn sẵn. Thiểm Khê còn có một ngôi chùa cổ được xem như đài tưởng niệm về chiến thắng Trúc Động. Đó là chùa Hoa Linh, hay còn gọi là chùa Thiểm Khê.

Chùa Hoa Linh dựng trên sườn cao của một thung lũng, lưng dựa vào núi Thiểm, bên phải có núi Chùa Hang, bên trái là núi Mẫu Ba. Dưới con mắt phong thuỳ, chùa Hoa Linh toạ lạc trên khu đất mang thế ỷ ngai, hai bên có tay long tay hổ. Thật là chốn địa linh hiếm thấy. Phía trước chùa, các dãy núi mở ra để cửa Tam Bảo có điều kiện hướng về Tây Phương cực lạc của giáo chủ A-di-đà, xa xa là dòng sông Giá trong xanh, lững lờ và đôi bờ dạt dào sóng lúa. Vườn chùa xanh thẫm một màu của “rừng” vải xum xuê in nền hoa gấm trên dãy núi đồi phe-ra-lít đỏ au và đẹp đến đột ngột khi gặp “nắng quái chiều hôm”. Tương truyền, thung lũng chùa Thiểm này, ở thời điểm chuẩn bị cho trận “quyết chiến chiến lược” trên sông Bạch Đằng năm 1288, được Trần Quốc Tuấn chọn làm nơi đóng quân, luyện tập binh sĩ, yết bảng tuyển chọn nhân tài phục vụ chiến dịch.

Chùa Hoa Linh nguy nga, tráng lệ thuở nào đâu còn nữa, ngoài những cấp nền bạt núi hình bậc thang, gieo vào lòng người nỗi luyến tiếc khôn nguôi về một cổ tự nằm sâu trong miền “sơn cước”. Chùa đã từng là nơi nuôi dưỡng những câu hò giao duyên của bao thế hệ “trai thanh nữ tú” Thiểm Khê, trong các buổi hội chùa, những đêm trăng rằm. Câu “ơ…ơ…ơ hò” đã ngấm vào mạch núi, quyện trong khóm tre làng bao lời đối đáp, tỏ tình. Hò giao duyên Thiểm Khê rất cần được sưu tầm, phổ biến và đó cũng là một trong những viên ngọc văn hoá quý giá của người Thuỷ Nguyên.

Về kiến trúc, chùa đã bị giặc phá hoại hồi kháng chiến chống Pháp, nên hầu hết những công trình hiện còn tuổi đời còn rất non trẻ. Những công trình kiến trúc, mặc dù còn vắng bóng những nét đẹp của nghệ thuật truyền thống này, nhưng nơi đây còn bảo lưu nhiều pho tượng quý, có giá trị nghệ thuật cao, được xếp vào loại tượng gỗ cổ nhất còn lại ở nước ta, đó là: bộ Tam Thế, bộ Di Đà Tam Tôn, Quan âm Chuẩn Đề, hai pho Bồ Đề Đạt Ma, Tượng Bồ Tát, Ngọc Hoàng và Nam Tào Bắc Đẩu, Thích Ca sơ sinh và cuối cùng là tượng Đức Ông và Thánh Tăng ...

Hai pho tượng có niên đại cổ nhất và cũng là những pho tượng đẹp nhất là tượng Quan âm Chuẩn Đề và tượng A-di-đà. Pho A-di-đà ngồi ở trung tâm Phật Điện, hai bên có trợ thủ là Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại thế chí Bồ Tát hợp thành bộ Di Đà Tam Tôn. A-di-đà là pho tượng to cao nhất chùa. Tượng cao đến 2m. Đầu tượng chạm kiểu “bụt ốc”, nổi chỏm “nhục kháo”. Các hàng tóc xoắn, xếp đều là biểu tượng những chữ “thánh” của nhà Phật, tượng trưng cho sự hội tụ sức mạnh vô lượng vô biên vào đức Phật. Bộ mặt tượng thanh tú, mắt khép hờ, miệng thoáng cười. Song điều đáng chú ý là má và cằm nổi, tạo nên những khối căng, no đủ, khiến vẻ mặt tượng đầy nét cao sang và đậm chất điêu khắc. Theo nhận xét của các nhà nghiên cứu mỹ thuật thì thời gian đã làm phai nhạt màu vàng kim (giải thoát) khiến cho màu sơn cánh gián nổi lên thật đậm và bóng, tạo cho tượng một giá trị cao hơn gấp bội về nghệ thuật. Niên đại của tượng được xếp vào nửa đầu thế kỷ 17, cùng phong cách và niên đại với pho tượng cùng loại ở chùa Thầy, do Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan cúng tiến. Pho tượng này đã góp phần san lấp khoảng trống cho nghệ thuật điêu khắc thế kỷ 17 ở Hải Phòng và của dân tộc.

Pho Quan âm Chuẩn Đề to bằng người thực (cao 1,12m) trong thế ngồi kiết già, phu toạ toàn phần trong thể hình tháp vững chãi, mang nhiều nét kế thừa tượng Quan âm chùa Bút Tháp, chùa Bối Khê. Bệ tượng là một đài sen ba lớp cánh ngửa, cánh sen múp phồng, cong vênh như nở mãn khai. “Thiên quan” (mũ tượng) chung quanh đều gắn nổi 15 pho tượng phật và bồ tát, đỉnh mũ có “tấm che” búi tóc như nhiều pho tượng Quan âm khác mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 16 mà chúng ta đã gặp ở chùa Thượng Trưng (Vĩnh Phú), Đa Tốn (Hà Nội), chùa Mía (Hà Tây) … Mặt tượng trái xoan thon thả, mang dáng dấp của một khuôn mặt nữ nhân từ, sang quí. Cổ cao ba ngấn, miệng thoáng cười cảm thông cứu độ. Đây là pho tượng được làm rất kỹ, từng chi tiết nhỏ đều được quan tâm. Các kỹ thuật đục chạm rất điêu luyện.

Tượng có 10 đôi tay, du khách thường bị quyến rũ đến đắm say bởi những cánh tay để trần trong các thế ấn quyết mà lại như đang trong động tác múa liên hoa. Đôi tay trên cùng đỡ hai cụm mây thiêng, ẩn hiện. Mặt trời, mặt trăng như biểu hiện ánh sáng vô lượng của Phật pháp chiếu rọi suốt ngày đêm, không gì ngăn cản nổi. Đôi tay thứ hai: Tay phải trong thế ấn thuyết pháp. Tay trái cầm bình nước cam lồ để diệt trừ 108 phiền não cho chúng sinh. Đôi tay thứ ba: Tay phải như đỡ cuốn kinh Phật, biểu hiện cho Phật pháp vô lượng vô biên. Tay trái cầm pháp loa cảnh tỉnh…Đôi tay thứ tám chắp trước ngực trong thế chuẩn đề, hội cho Quan âm một siêu lực vô lượng.Đôi tay thứ chín trong thế ấn liên hoa. Đôi tay thứ mười đặt trên lòng đùi, trong thế ấn tam muội.

Thông qua kỹ thuật tạo tượng, chúng ta có thể tin, tượng có niên đại cuối thế kỷ thứ 16, cùng thời với niên đại nhà Mạc xây dựng thành quách (Thành Dền) của mình ở Liên Khê - Trúc Động.

Chùa Thiểm Khê, một di sản của nghệ thuật Mạc.

Nguồn : dulichhaiphong.gov.vn

Viết bình luận